1 Giới thiệu về sâm bố chính
Mô tả cây sâm bố chính
Sâm bố chính là cây thuộc loại cây thân thảo, sống lâu năm, mọc đứng, khá yếu nên thường phải tựa vào các cây xung quanh, có chiều cao trung bình từ 0,5 - 1m, một số cây có thể cao hơn. Lá ở phần gần gốc có hình trái xoan, phần cuối phiến lá có hình tim. Các lá ở phía ngọn thì hẹp dần, trên mặt lá có hình sao, lông đơn.
Hoa thường có màu đỏ hoặc màu hồng, có điểm phớt vàng ở giữa hoa. Hoa mọc riêng lẻ ở kẽ lá, có hình túi. Cuống hoa dài khoảng 5 – 8cm, có phủ một lớp lông cứng. Đài hoa có 7 – 10 tràng hẹp dài với lông tua tủa, chiều dài khoảng 12 – 14mm, thường rụng sớm. Hoa thường có 5 cánh dài, hình nêm, có chiều dài khoảng 3 – 6cm.
Quả của cây sâm bố chính khi chín có hình trứng, hơi thuôn nhọn, mặt ngoài có lông. Khi quả chín thường sẽ nứt tách thành 5 mảnh. Hạt màu nâu đen, có hình giống quả thận. Rễ có hình trụ, màu trắng hay vàng nhạt, nhiều rễ có hình người trông rất giống nhân sâm. Vậy nên nhiều người còn đây gọi là củ sâm bố chính.
Sâm bố chính trước đây là mọc hoang ở nhiều địa phương của nước ta như vùng núi Nam Đàn, Hương Sơn thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh và một vài tỉnh ở phía Bắc như Hòa Bình, Tây Bắc, Quảng Bình, hiện nay đã di thực và được trồng ở nhiều địa phương hơn.[1]
Sâm bố chính là loại cây thân thảo, rễ hình trụ giống nhân sâm.
Thành phần hóa học
Rễ sâm bố chính có có chứa 35 - 45% chất nhầy, khoảng 15% tinh bột, 4% lipid (gồm acid myristic, acid oleic, acid linoleic, acid linolenic, acid stearic, acid palmitic).
Hàm lượng protein toàn phần là 0,23% và protid là 1,26%. Cây có lượng acid amin dồi dào như: alanin, leucin, tyrosin, prolin, phenylalanin,… và rất nhiều khoáng chất có lợi cho cơ thể như natri, magie, canxi, sắt, đồng, kẽm, phospho,...
Gần đây, các nhà khoa học còn phát hiện trong sâm bố chính còn có một số hoạt chất có tác dụng trên tế bào ung thư, đặc biệt là hợp chất Acyl hibiscone B – một hợp chất có tính độc tế bào, kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư trong cơ thể.
Rễ sâm bố chính là bộ phận mang lại nhiều giá trị dinh dưỡng cao.
Phân loại sâm bố chính
Để phân loại sâm bố chính, người ta dựa vào những đặc điểm của hoa và khu vực mọc, từ đó có 2 cách phân loại: phân loại theo màu sắc hoa và theo địa hình mọc.
Phân loại vào màu sắc hoa, chia sâm bố chính thành 4 loại:
- Sâm bố chính hoa màu đỏ tươi: Thường thấy ở vùng đồi núi Tây Nguyên và Miền Đông Nam Bộ. Hoa to, năm cánh mỏng. Rễ ít phân nhánh và mang hàm lượng dinh dưỡng, dược tính cao nhất trong các loại. Tuy nhiên, loại này đang dần trở nên khan hiếm do là loài mọc tự nhiên không được chăm sóc.
- Sâm bố chính hoa màu hồng phấn: Loại này thường thấy ở vùng đồng bằng, được trồng làm cảnh nhiều hơn là mục đích kinh tế, dược tính ít hơn loại sâm trên.
- Sâm bố chính hoa đỏ hồng: Phổ biến ở nhiều nơi trên cả nước, phát triển nhanh và cho sản lượng lớn. Cây có thể thích nghi tốt tại nhiều kiểu đất khác nhau (đồi núi thấp, đất phù sa).
- Sâm bố chính hoa vàng: Có đặc tính sinh trưởng gần giống các loại sâm bố chính còn lại. Tuy nhiên loại sâm này không có củ.
Phân loại theo địa hình mọc, chia sâm bố chính thành 3 loại:
- Địa hình núi thấp dưới 1000m: Tập trung chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.
- Địa hình đồi bán sơn địa: Các tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, An Giang, Kiên Giang.
- Địa hình đồng bằng phù sa: Chủ yếu ở vùng Đồng Tháp, Tiền Giang.
Sâm bố chính hoa vàng là loại sâm không có củ.
2 Tác dụng dược lý của sâm bố chính
Theo Y học cổ truyền
Tác dụng: Sinh tân dịch, ích huyết, bổ tỳ vị, thanh nhiệt, tăng cường sinh lực, bổ khí, chỉ khát, bổ máu, nhuận phế, kích thích tiêu hóa.
Chủ trị: Ít ngủ, kém ăn, gầy còm chậm lớn, suy dinh dưỡng, suy nhược cơ thể, ho dai dẳng, viêm phế quản, lưng đau, hoa mắt, chóng mặt, mất ngủ, lao phổi, sốt, viêm họng, đau mình, khí hư, động kinh, trầm cảm, suy giảm sinh lý,…
Sâm bố chính là loại cây có rất nhiều công dụng trong Y học cổ truyền
Bình luận